Federer thắng nhiều nhất 'Big 3' sau tuổi 35

2025-03-12 IDOPRESS

Với việc tay vợt cuối cùng trong "Big 3" còn trụ lại đỉnh cao là Novak Djokovic đang thua liên tục và có nguy cơ không thể giành thêm danh hiệu,Tennis365 đã đưa ra thống kê đáng chú ý liên quan tới "tuổi già" của ba huyền thoại. Theo đó,Roger Federer tạm dẫn đầu về số trận thắng và số danh hiệu,trong khi Rafael Nadal thi đấu ít nhất vì dính nhiều chấn thương.

Lớn tuổi nhất Big 3 là Federer. Huyền thoại Thụy Sĩ bắt đầu lên chuyên nghiệp vào tháng 7/1998 ở sự kiện Swiss Mở rộng,cho đến thời điểm treo vợt tại Laver Cup 2022. Federer giành phần lớn danh hiệu trước tuổi 30,nhưng ngôi sao Thụy Sĩ trở lại ấn tượng vào 2017 khi đã bước qua tuổi 35. Trong năm 2017,Federer với lối chơi vũ bão như thời trẻ,giành bảy danh hiệu,gồm hai Grand Slam và kết thúc năm ở vị trí thứ hai thế giới.

Mùa tiếp theo 2018,Federer giành thêm Australia Mở rộng,Grand Slam thứ 20 và cũng là cuối cùng trong sự nghiệp dài 24 năm. Anh kết thúc năm đó với vị trí thứ ba thế giới và còn dự thêm trận chung kết Wimbledon một năm sau. Tuy nhiên,Federer gặp nhiều chấn thương từ 2021,trước khi chính thức giải nghệ tháng 9/2022.

Federer (phải) cùng Nadal (giữa) và Djokovic ở Laver Cup 2022 - giải đấu cuối cùng trong sự nghiệp của "Tàu tốc hành". Ảnh: Reuters

Tổng cộng Federer đã thắng 192 trong 229 trận sau mốc 35 tuổi,giành ba Grand Slam trong 15 danh hiệu. Thứ bậc trung bình của anh trong những năm cuối sự nghiệp là số sáu thế giới. Tỷ lệ thắng của "Tàu tốc hành" những năm này là 84%,còn cao hơn 2% so với trung bình cả sự nghiệp.

Trong "Big 3",Nadal là người thi đấu ít nhất sau tuổi 35. "Vua đất nện" chỉ chơi 100 trận trong đoạn cuối sự nghiệp,thắng 76 trong số đó và đoạt sáu danh hiệu – gồm hai Grand Slam. Chiến công bất ngờ nhất của Nadal trong giai đoạn này là Australia Mở rộng 2021,trước khi đoạt cả Roland Garros cùng năm để cán mốc 22 major cả sự nghiệp.

Nadal bắt đầu thi đấu ít từ nửa sau năm 2022,và chỉ chơi bốn trận trong năm 2023,trước khi trở lại với 20 trận một năm sau đó. Tuy nhiên,Nadal không giành danh hiệu nào ở hai năm cuối,rồi giải nghệ sau VCK Davis Cup tháng 11/2024. Huyền thoại Tây Ban Nha dừng cuộc chơi ở tuổi 38,đoạt thêm sáu danh hiệu sau tuổi 35 và thứ bậc trung bình chỉ là 207 do có thời điểm anh bật khỏi top 600.

Djokovic là người duy nhất của "Big 3" còn thi đấu,nhờ trẻ hơn và dẻo dai hơn. Cho tới nay,Nole đã giữ hầu hết kỷ lục quan trọng nhất làng banh nỉ. Tuy nhiên,thành tích của anh sau tuổi 35 đang bị kéo lại,do cơn hạn danh hiệu kéo dài từ tháng 11/2023.

Djokovic tới nay đã chơi 161 trận từ khi sang tuổi 35 và thắng 135 trong số đó (tỷ lệ thắng 84%). Anh đoạt 13 danh hiệu,gồm bốn Grand Slam. Thành tích này chủ yếu đến trong năm 2022 và 2023. Sau đó,tay vợt Serbia liên tục thất bại trong một năm rưỡi qua,gồm hai trận chung kết Wimbledon và một trận chung kết Masters 1000. Anh kết thúc mùa trước với vị trí số bảy thế giới,thấp nhất từ 2017.

Ở mùa thứ tư sau mốc 35 tuổi,Djokovic đang chơi không tốt khi thua liên tiếp ba trận gần đây – điều chưa từng xảy ra từ 2018. Phong độ này làm dấy lên câu hỏi về khả năng duy trì đẳng cấp của Nole ở tuổi xế chiều,dù anh đã vào được bán kết Australia Mở rộng đầu năm nay.

"Tôi khá nghi ngờ khả năng giành thêm một danh hiệu nữa của Djokovic,chưa nói đến Grand Slam",cựu tay vợt số một thế giới Mats Wilander bày tỏ lo ngại,dù ông vẫn ủng hộ Djokovic tiếp tục cống hiến cho tới khi 40 tuổi. Nole sẽ hướng đến cột mốc 100 danh hiệu trong sự nghiệp tại Miami Mở rộng,sự kiện Masters 1000 diễn ra từ 18-30/3.

Vy Anh

Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Bài viết này được sao chép từ các phương tiện khác. Mục đích của việc in lại là để truyền tải thêm thông tin. Điều đó không có nghĩa là trang web này đồng ý với quan điểm của nó và chịu trách nhiệm về tính xác thực của nó và không chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào. Tất cả tài nguyên trên trang web này được thu thập trên Internet. Mục đích chia sẻ chỉ dành cho việc học và tham khảo của mọi người. Nếu có vi phạm bản quyền hoặc sở hữu trí tuệ, vui lòng để lại tin nhắn cho chúng tôi.
©bản quyền 2009-2020 Thông tin Giáo dục Việt Nam      Liên lạc với chúng tôi   SiteMap